1421-TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC : ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ - TẬP I : LỜI NÓI ĐẦU - 8





Những câu kinh này quý Phật tử đã nằm lòng thì đạo đức nhân bản là ở tại đó.

 Bây giờ quý vị còn nghi ngờ đạo đức này là của chúng tôi bịa đặt ra không? Hay là của Đức Phật?

Vì lợi ích cho con người trên hành tinh này, chúng tôi sẽ cố gắng triển khai nền đạo đức nhân bản của Đạo Phật.
Thứ nhất là làm sáng tỏ lại Đạo Phật.

Thứ hai giúp cho con người có một nền đạo đức nhân bản để thoát ra khỏi bản chất loài cầm thú.

Nhưng dù sao ai có nói gì, nói như thế nào, chúng tôi cũng đều chấp nhận. Vì biết rằng mọi người hiện giờ mang đầy ắp những kiến giải và kiến chấp rất nặng, khi vạch ra những cái sai của kiến chấp đó thì họ đỏ mặt tía tai tức giận sân lên không còn trí tuệ tự xét lại những kiến chấp và kiến giải của mình đúng chỗ nào, sai chỗ nào.

Quán xét lại giáo pháp của Đức Phật “Giới, Định, Tuệ”, nhưng kỳ thật không ngoài pháp Sơ Thiện, Trung Thiện và Hậu Thiện, tức là đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người. Đạo đức nhân bản tức là đạo đức nhân quả thiện ác, đạo đức nhân quả thiện ác tức là ngăn ác diệt ác pháp, sanh  thiện tăng trưởng thiện pháp, đó là phương cách để mọi người sống trong thiện pháp và loại trừ các ác pháp. Sống trong thiện pháp và đoạn dứt các ác pháp là sống trong đạo đức không làm khổ mình, khổ người, không làm khổ mình khổ người là tâm bất động, tâm bất động là mục đích của Đạo Phật. Cho nên, Phật dạy: “Mục đích của đạo Ta, không phải giới luật, không phải thiền định, không phải trí tuệ mà là tâm bất động giải thoát”. Lời xác quyết này trong Kinh Nguyên Thủy rất rõ ràng, vậy mà Kinh sách phát triển dám bảo rằng: “Giác ngộ hay Đại giác” là mục đích của Đạo Phật.

Xét ra các pháp mà Đức Phật đã dạy, từ Giới luật, Thiền định và Trí tuệ, đâu đâu Đức Phật cũng dạy chúng ta tu tập ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp.
Xét về giới luật: cấm sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, v.v.. Không phải đây là pháp ngăn ác diệt ác pháp sao?

Xét về thiền định: ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền, diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền, xả hỷ nhập Tam Thiền, xả lạc khổ xả niệm thanh tịnh nhập Tứ Thiền ... Không phải đây là pháp ngăn ác diệt ác pháp sao?

Xét về trí tuệ: tri kiến giải thoát trên Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu. Khắc phục tham ưu ... không phải là ngăn ác diệt ác pháp sao?

Xét về trí tuệ khổ, tập, diệt, đạo để thấu suốt chân lý đời sống của con người. Khiến chúng ta nhàm chán thân phận làm người, đó không phải là pháp ngăn ác diệt ác pháp sao?

Xét về Đạo đế: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, không phải là pháp ngăn ác diệt ác pháp sao?

Chánh Niệm và Chánh Định diệt tầm tứ xả tưởng và xả thọ để làm chủ sự sống chết thì không phải pháp ngăn ác diệt ác pháp sao?

Tất cả các pháp môn của Đạo Phật đều đi về một chiều hướng ngăn ác diệt ác pháp, để đưa con người đến chỗ an vui hạnh phúc chân thật không làm khổ mình, khổ người, sống ngay giữa cuộc đời này.

Giáo pháp của Đức Phật là một giáo pháp dạy về đạo đức làm người, đạo đức nhân bản, để mọi người thoát ra khỏi bản năng của loài thú vật, nhờ thoát khỏi bản năng loài thú vật nên không còn làm khổ cho nhau nữa và tất cả chúng sanh.

Xét qua những lời dạy trên đây của Đức Phật để chứng minh đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người không phải chúng tôi mới đặt ra như Thầy Chơn Đức đã nói: “Phải xem lại pháp môn của Thầy, Thầy lấy đệ tử để thí nghiệm pháp môn của mình ...”. Những pháp chúng tôi dạy từ Giới, Định, Tuệ đều của Phật Giáo, chúng tôi chẳng có chế ra một pháp môn nào mới cả, vì những pháp này là những bài Kinh trong Tạng Kinh Nguyên Thủy Pali bằng giấy trắng mực đen vẫn còn rõ ràng.

Hôm nay chúng tôi dạy về đạo đức lòng thương yêu để cho mọi người thực hiện lòng yêu thuơng ấy đúng chỗ, đúng lúc để không làm khổ mình, khổ người và khổ các loài chúng sanh.

Trong cuộc sống con người, muốn được yên vui hạnh phúc không gì hơn là con người phải sống có đạo đức. Đạo đức về lòng thương yêu là một thứ đạo đức rất cần thiết và quan trọng cho cuộc sống con người. Nếu con người không có đạo đức về lòng thương yêu thì con người như cây đá.

Như trên chúng tôi đã nói mọi loài động vật đều có lòng yêu thương, nhưng chỉ vì đặt sai hướng thành ra không có đạo đức. Thầy Từ Minh, Minh Tông, Chơn Đức, v.v.. không phải là những người không có tình thương, nhưng vì tình thương ấy đặt sai hướng nên mất đạo đức làm người, trở thành những người học trò bất nghĩa.

Thật đáng thương thay cho họ là những người tu hành theo Phật Giáo mà đạo đức thì không bằng người thế tục, họ có trình độ học thức đại học, trên đại học thế mà đạo đức làm người họ là con số không.
Sau những năm tháng chúng tôi dẫn dắt những người đệ tử từng bước đi trên sự tu tập, họ đã té xuống đứng lên nhiều lần, nhưng chúng tôi không nản lòng, cố sức mình dìu dắt cho họ đến nơi đến chốn, phần nhiều họ là những người bệnh thiền, nên chúng tôi càng vất vả hơn. Họ là những người đồng kiến chấp, nên đẽo gọt đập phá dần dần để cho họ xả những loại pháp môn độc tố đã ăn ngấm vào thân tâm của họ.

 Cho nên, đến những giây phút vượt qua khó khăn nhất là lúc bấy giờ họ phá kỷ luật “Độc Cư”, để rồi bao nhiêu công lao của chúng tôi và công sức của họ đã trở thành mây khói và cuối cùng họ trở thành những người bất nghĩa.

Riêng chúng tôi ngậm ngùi và tự trách mình sao không mạnh dạn dạy cho họ đạo đức vào buổi học đầu tiên mà lại dạy họ tu tập thiền định, để rồi thiền định đâu không thấy mà chỉ thấy một tai hại rất lớn là họ đã sống trong tưởng giải của những kẻ ngông cuồng.

 Đúng vậy, con đường này, con đường Đại Thừa và Thiền Đông Độ đã dẫn dắt muôn người vào thế giới tưởng.

 Chúng tôi đã biết những điều này, nhưng chỉ sợ đụng chạm đến Thầy Tổ của mình, nên nhẹ nhàng lôi cho họ ra khỏi lộ trình này để đi về hướng đạo đức.

Cuối cùng chẳng có người đệ tử nào mà không phá giới luật đức hạnh. Do những nguyên nhân trên đây mà đạo đức làm người ra đời.

1420-TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC : ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ - TẬP I : LỜI NÓI ĐẦU - 7




˗ Bạch Thế Tôn! Hạng người tự làm khổ mình, chuyên tâm làm khổ mình, hạng người này tâm con không thích.

˗ Bạch Thế Tôn! Hạng người làm khổ người, chuyên tâm làm khổ người, hạng người này tâm con cũng không thích.

˗ Bạch Thế Tôn! Hạng người tự vừa làm khổ mình, chuyên tâm làm khổ mình, vừa làm khổ người, chuyên tâm làm khổ người, hạng người này tâm con cũng không thích.

˗ Bạch Thế Tôn! Hạng người vừa không làm khổ mình, không chuyên tâm làm khổ mình, vừa không làm khổ người, không chuyên tâm làm khổ người, hạng người này không làm khổ mình không làm khổ người, ngay trong hiện tại không có tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể, hạng người này tâm con thích”.

Trên đây là một bài dạy về đạo đức của Phật Giáo, mà hầu hết các nhà học giả xưa và nay không quan tâm đến bài Kinh dạy đạo đức nhân bản này của Phật Giáo. Họ chỉ quan tâm đến danh từ “Từ Bi” của Đạo Phật và sự tưởng tượng sự từ bi của Đạo Phật quá cao siêu, dường như từ bi đó dành riêng cho Đức Phật và chư Bồ Tát chứ phàm phu không ai dám mó tới. Đó là cái hiểu của các nhà học giả, chứ từ bi của Đạo Phật rất bình thường ai cũng có thể sống được đó là sống không làm khổ mình khổ người, sống không làm khổ mình khổ người là người có nhân bản làm người.

Bởi vì hiểu sai đạo đức của Đạo Phật biến Phật Giáo thành một tôn giáo ủy mị.
Vì thế, người ngoài đời hiểu đạo đức từ bi của Đạo Phật là một thứ đạo đức dành riêng cho một số người vĩ đại như “các Bồ Tát, Phật, A La Hán” chứ còn hạng tầm thường như chúng sanh thì đạo đức từ bi chẳng ai dám rớ vào, đó là cái nhìn sai của các nhà học giả nghiên cứu Phật Giáo từ xưa đến nay.

Do không hiểu đạo đức nhân bản nhân quả của Đạo Phật các nhà học giả huyền thoại nâng cao Đạo Phật lên tột đỉnh mây xanh để biến Phật Giáo cao hơn các tôn giáo khác mọi mặt. Vì thế, đã khiến cho Đạo Phật xa lìa đạo đức nhân bản làm người và khiến cho Đạo Phật cách xa con người, để trở thành một tôn giáo trừu tượng “Phản bổn hoàn nguyên, Bản thể vạn hữu, Phật tánh” hay mê tín, lạc hậu có cõi Cực Lạc, linh hồn vãng sanh về chỗ rất vui không có buồn khổ, không có tham, sân, si, cõi đó hạnh phúc và an lạc vĩnh hằng, khiến cho mọi người nghe và tâm hồn đắm mê mơ tưởng.

Cũng từ sự mơ tưởng thế giới vĩnh hằng Niết Bàn, thường, lạc, ngã, tịnh, đối với Phật Giáo, từ đó con người (tín đồ) đã cách xa nền đạo đức nhân bản của mình tức là cách xa đạo đức của Phật Giáo, cách xa đạo đức của Phật Giáo là cách xa cuộc sống thiết thực lợi ích cho mình cho người, mà trong Tăng Chi Bộ Kinh Đức Phật đã dạy:

“Này các Thầy Tỳ-Kheo! Có bốn hạng người có mặt hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

1-Hướng đến lợi mình, không   lợi người.

2-Hướng đến lợi người, không lợi mình.

3-Không hướng đến lợi mình, lợi người.

4-Hướng đến lợi mình, lợi người”.

(Tăng Chi Kinh Tập 1, trang 733)

Qua bài Kinh trên chúng ta thấy rất rõ nền đạo đức của Đạo Phật được gắn liền vào đời sống của mọi con người, để mang lại hạnh phúc, an vui cho mình cho người mà Đạo Phật gọi là giải thoát, chứ không có tụng kinh, niệm chú, ngồi thiền, niệm Phật để cầu về cõi Cực Lạc, Niết Bàn như người ta đã lầm hiểu.

Vì thế, đạo đức của Đạo Phật được lấy tên là “ĐẠO ĐỨC KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH KHỔ NGƯỜI” hay là đạo đức làm lợi mình lợi người, có nghĩa là không làm khổ cho nhau, đạo đức không làm khổ cho nhau mới thật là đạo đức nhân bản của con người.

Những bài kinh này Đức Phật đã dạy đạo đức rất thực tế và cụ thể cho cuộc sống của con người. Nhưng tiếc thay! Đức Phật tịch không có người thừa kế, triển khai nền đạo đức này, dần dà nền đạo đức của Phật Giáo đã bị dìm mất và quên lãng, khiến cho tín đồ Phật Giáo từ xưa cho đến  nay phải chịu thiệt thòi rất lớn.

 Hiện giờ tín đồ Phật Giáo chỉ còn biết ngồi thiền nhập định, niệm Phật, tụng kinh, sám hối, cầu siêu, cầu an, v.v.. chứ không còn biết đạo đức là gì?
Khi chúng tôi triển khai lại đạo đức của Phật Giáo, thì cũng có người bảo rằng: đạo đức đó là của chính chúng tôi đặt ra chứ từ xưa đến giờ Đạo Phật không có đạo đức này.

Nếu không có những bài kinh trên đây minh chứng, chắc chắn tín đồ Phật Giáo sẽ xem nền đạo đức này là của tà giáo ngoại đạo. Chúng tôi cũng xin xác định thêm những bài Kinh mà quý Phật Tử đã từng thuộc làu như:

“Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành”
Hoặc:

Ngăn ác, diệt ác pháp.
Sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp”

Đó không phải là những câu kinh dạy đạo đức sao? Những câu kinh này là dạy đạo đức nhân bản làm người.

Các pháp ác chớ nên làm, có phải là không làm khổ mình, khổ người không?
Các pháp thiện nên làm có phải là đem đến sự an vui cho mình, cho người không?
Ngăn ác diệt ác pháp, có phải không làm khổ mình, khổ người chăng?

Sanh thiện tăng trưởng thiện có phải đem đến sự an vui cho mình, cho người không? 

1419-TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC : ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ - TẬP I : LỜI NÓI ĐẦU - 6





Ví dụ: Một vị Sa-môn đạo sư của mình ăn uống phi thời, sống như một ông nhà giàu, xe cộ, chùa to Phật lớn. Nói chungtất cả những vật chất tiện nghi của thế gian có gì thì ông có nấy, giới luật của Phật thì bị ông bẻ vụn nát, sống phung phí tiền của đàn na tín thí xem như đất cát, lời nói thuyết giảng thì rất hay nhưng cuộc sống của ông ta thì quá dở. Do đạo hạnh của ông không có nên lời dạy đạo của ông không nhất quán, ông còn khổ về vật chất thế gian tức là còn tham muốn, còn tham muốn tức là còn ác pháp, mặc dù hiện giờ ông là đạo sư của mình, như Đức Phật đã dạy, thì không nên tin ông ta, ông là người nói láo có sách vở.

Chỉ khi nào vị Sa-môn đạo sư của mình sống một đời sống Phạm hạnh không làm khổ mình, khổ người, thường ban rải tâm từ bi qua hành động thương xót mọi người, mọi loài chúng sanh, tức là ông không làm khổ mình, khổ người thì chúng ta hãy tin theo vị đạo sư đó. Đó mới chính là thầy mình, đó là bậc đạo sư xứng đáng dẫn dắt mình trên đường đạo. Người là gương hạnh đạo đức sáng cho mình soi, người là nguồn an ủi tinh thần cho mình, người là chỗ nương tựa vững chắc để chúng ta tiến bước trên đường đạo.

 Kiếm được một bậc Thiện Hữu như vậy trên đời này đâu phải dễ.

Bổn phận chúng ta là ông bà, cha mẹ nên chọn cho con cháu của mình một nơi nương tựa tinh thần vững chắc. Nương tựa tinh thần vững chắc như thế nào?

Tức là chọn cho con cháu mình một tôn giáo dạy về đạo đức nhân bản không làm khổ mìnhkhổ người. Tôn giáo dạy đạo đức như vậy mới chính là nơi nương tựa vững chắc, còn những tôn giáo dạy nương tựa bằng thế giới siêu hình, bằng ảo tưởng, bằng bùa chú thần linh, bằng thần thông phép tắcv,v.. thì đó không phải là nơi nương tựa tinh thần vững chắc cho con cháu của chúng ta.

Mục đích của chúng ta đến với tôn giáo là đến với đạo đức làm người cho xứng đáng là con ngườichứ không phải đến với thế giới ảo, vì thế giới ảo mà nương tựa thì không vững chắc.

Nếu chúng ta không chọn nơi nương tựa vững chắc cho con cháu của chúng ta, để tự chúng chọn lấy, chắc chắn chúng sẽ bị lầm lạc và rơi vào cạm bẫy quyến rũ của tà giáo ngoại đạo phi đạo đức. Những tà giáo  này phần nhiều là những người lừa đảo bằng những mánh khoé gian xảo để sau này con cháu của chúng ta tiêm nhiễm những điều phi đạo đức trở thành những tên giáo chủ giết người hàng loạt mà báo chí đã loan tin tức trên thế giới.

Không lẽ để con cháu của chúng ta trở thành những tên ác qủy, hung thần giết người không gớm tay như vậy sao?
Biết mình tài hèn, sức bạc, không thể làm gì chận đứng được những chiếc xe đang đổ dốc, nhưng chúng ta cũng phải tìm mọi cách không chận đứng được thì ít ra cũng làm giảm tốc độ xuống dốc đó.
Vì thế, đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người ra đời.

Năm 2000 đánh dấu nền đạo đức của Phật giáo được khơi dậy, mặc dù đạo đức này đã có cách đây từ 2543 năm. Từ khi Đức Phật nhập diệt nền đạo đức này đã bị Bà La Môn giáo dìm mất từ thuở ấy.
Lời nói của chúng tôi ít có ai tin rằng đạo đức này là của Đức Phật. Bởi vì Đạo Phật truyền vào đất nước Việt Nam, theo sử của Lê Mạnh Thát viết thì Đạo Phật có từ thuở vua Hùng Vương mà truyền vào bằng quyền năng, thần thông chứ không có truyền đạo đức. Mãi cho đến thời đại của chúng ta, cuối thiên niên kỷ thứ hai đầu thiên niên kỷ thứ ba, thì chúng tôi mới viết thành sách để phổ biến nền đạo đức này thì làm sao người ta tin được rằng nền đạo đức này là của Phật Giáo, nếu không có những bài Kinh Nguyên Thủy để xác chứng đạo đức này là của Phật Giáo thì chúng tôi khó mà chứng minh được. Nếu thật sự Phật Giáo không có nền đạo đức này và chúng tôi tự soạn ra thì chẳng khác gì các ông Bà La Môn. Vì thế, hiện giờ có người cho rằng chính chúng tôi chế ra giáo pháp và đạo đức này, cho nên họ bảo: “Phải xem lại pháp môn của Thầy, lấy đệ tử thí nghiệm pháp môn của mình”.

Thật sự chúng tôi chẳng có pháp môn nào cả, tất cả những pháp môn chúng tôi dạy đều là của Đức Phật, mà chúng tôi đã theo pháp môn đó tu tập có kết quả cho cuộc sống của chúng tôi, ngày nay chúng tôi sống có đạo đức và đạo hạnh của một vị tu sĩ Phật Giáo không làm khổ mình, khổ người.

Gần đây có người cho chúng tôi dạy tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền là pháp môn do chúng tôi đặt ra, sự thật là Phật đã dạy như vậy còn những bài Kinh trong Tạng Kinh Nikaya, thế mà họ không nghiên cứu kỹ giáo pháp của Phật vội lên án chúng tôi bịa đặt pháp.

Vì biết tâm niệm phàm phu của chúng sanh vô minh hay nghi ngờ nên chúng tôi phải mất nhiều thì giờ và giấy mực để minh chứng bằng những lời dạy của Đức Phật trong Tạng Kinh Nguyên Thủy Nikaya còn rõ ràng.

Nói về đạo đức làm người tức là đạo đức nhân bản nhân quả không làm khổ mình khổ người, thì chúng tôi phải minh chứng cho quý vị thấy, xin mời quý vị đọc lại bài kinh trong Trung Bộ Kinh tập 2 do Hòa Thượng Minh Châu dịch từ tiếng Pali sang Việt ngữ trong Tạng Kinh Nikaya, bài Kinh số 51 KANDARAKA trang 13: “Này Passa! Có bốn hạng người này có mặt ở trên đời. Thế nào là bốn? Ở đây, này Passa! Có người tự làm khổ mình, chuyên tâm tự làm khổ mình. Ở đây, này Passa! Có người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này Passa! Có người vừa tự làm khổ mình khổ người, chuyên tâm làm khổ mình vừa làm khổ người. Ở đây, này Passa! Lại có người vừa không làm khổ mình, không chuyên tâm làm khổ mình, vừa không làm khổ người, không chuyên tâm làm khổ người. Người ấy không làm khổ mình, không chuyên tâm làm khổ mình, không làm khổ người, không chuyên tâm làm khổ người, ngay trong hiện tại không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể. Này Passa! Bốn hạng người này, trong người nào được tâm ông thích nhất?



1418-TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC : ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ - TẬP I : LỜI NÓI ĐẦU - 5





Tại sao vậy?
Tại vì con người có trí tuệ hơn con thú, suy tính đủ loại gian ác, luôn luôn ôm ấp những ác pháp trong người như lo toan, sợ hãi, giận hờn, thù oán, phiền não, bất toại nguyện,
 v.v.. đó là những ác pháp khiến tuổi thọ họ giảm.

Con người có trí thông minh hơn loài thú, bày ra đủ cách ăn uống giết hại chúng sanh để thỏa mãn lòng dục về ăn uống, do ăn uống những chất độc mà cơ thể sanh ra đủ loại bệnh tật và tuổi thọ bị giảm.

Con vật ăn thực vật ít bệnh đau hơn con vật ăn động vật.
  
Con vật tuổi thọ hơn con người là vì tinh thần thanh thản không có tư tưởng gian ác, xảo trá, suy tư nghĩ tưởng nhiều.

Con vật tuổi thọ và ít bệnh đau hơn con người là không có thế giới trong tưởng tức là thế giới siêu hình.

Cho nên, tập dưỡng sinh, thể thao hay Yoga là để cho những người già cả, không còn lao động và những người làm việc bằng trí óc, sự hoạt động để quân bình cơ thể của họ và ít bệnh đau chứ không phải phương pháp đó 
ngừa bệnh và trị bệnh.

Phương pháp ngừa bệnh và trị bệnh là đạo đức không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh.

Cũng như chúng ta thấy con vật có tập thể thao thể dục, dưỡng sinh, yoga đâu mà tuổi thọ có cả ngàn năm, còn con người của chúng ta có ai sống ngàn năm chưa? Mặc dù có những nhà luyện tập yoga thượng thặng sống trên núi Hy-Mã-Lạp-Sơn nhưng mà vẫn chưa có ai sống được ngàn năm.

Cơ thể của con người cũng như của loài vật là một khối duyên hợp trong môi trường sống nhân quả lập thành nên sự vô thường thay đổi liên tục trên cơ thể này, do đó không có một phương pháp nào mà giữ gìn nó bất di bất dịch, không thay đổi, không vô thường, dù cho chúng ta có tập yoga, dưỡng sinh thì tuổi thọ nó không thể sống trên 1000 năm được.

Còn như lối tuyên truyền của Tiên Đạo, luyện Tinh - Khí - Thần, tu hành sẽ thành vừa hồn vừa xác, đó là một điều huyễn hoặc lừa đảo người. Đức Phật dạy các pháp là vô thường, là khổ, thế mà có người điên dại cố giữ gìn cái khối vô thường và đau khổ này để làm gì?

Chỉ có những người bị bệnh
 thần kinh mới ham giữ nó mà thôi. Người muốn giữ nó là người vô minh điên đảo, ai đâu mà ôm cái khối khổ mà chịu khổ, gọi là sống trường thọ hạnh phúc, ôm lao tù mà gọi là tự tại, tự do.

Do lầm chấp cái thân này mà cố giữ gìn, vì thế mà tạo ra biết bao nhiêu muôn ngàn ác pháp: Ăn miếng trả miếng không chịu thua ai hết, luôn luôn tích luỹ cho cá nhân của mình, nhưng cuối cùng cũng chỉ còn ôm cái nghiệp ác để tái sanh luân hồi mãi mãi, cũng giống như một con thú vật mà thôi, thật là uổng phí cho một kiếp làm người mà chẳng biết sống một phút giây đạo đức giải thoát. Thật là thương thay! Thương thay!
Lời khuyên của Đức Phật, khi chúng ta chưa biết rõ chắc chắn một dự kiến có ích lợi cho mình, cho người thì cũng đừng tin theo những dự kiến đó; dự kiến đó là một hình thức bên ngoài thì có vẻ lợi ích nhưng đó là một thủ đoạn lừa gạt người khác. Nhất là những hình thức từ thiện nhưng bên trong là làm giàu cho cá nhân.

Bởi vì, con người là một động vật có trí tuệ, nó dễ đưa con người thành ác quỷ, nếu có luật nhân quả tức là đạo đức nhân bản - nhân quả thì chúng ta hãy tin, còn nếu không có đạo đức nhân bản nhân quả thì chúng ta không nên tin.

Ví dụ: Chúng ta cho thế giới siêu hình là thật, thần thông phép tắc là thật. Vậy thế giới siêu hình có thật thì có ích lợi gì cho chúng ta khi mà luật nhân quả chủ thể điều khiển, phán xét, xử tội, thưởng phạt cả thế giới hữu hình và vô hình, có nghĩa là luật nhân quả phán xét thưởng phạt thế giới loài người và thế giới các cõi trời.

Còn bảo rằng thần thông phép tắc là có thật, như đi xuyên qua vách đá, đi trên mặt nước, bay trên hư không hoặc tàng hình, biến hóa… Làm những điều này có lợi ích gì cho ai. Chính những người có những thần thông này tâm tham, sân, si của họ chưa sạch, tức là ác pháp vẫn còn, ác pháp còn tức là đạo đức nhân bản nhân quả không có.

Vì thế, Đức Phật dạy đừng có tin thế giới siêu hình, thần thông phép tắc, nó là những điều huyễn hóa không lợi ích cho mình cho người, thì nhất định không nên tin theo.
Đức Phật dạy đừng có tin những gì xuất phát nơi có uy quyền.

Ví dụ như thời nhà Lý và nhà Trần, Phật giáo rất hưng thịnh và được xem gần như là quốc giáo. Vua là tu sĩ, quan là Phật tử, nhất là vua Trần Nhân Tôn,cha đẻ thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, nhưng đạo lý không có, chôn sống nhà Lý, người trong nhà lấy nhau như trâu bò. Đạo Phật có, Nho giáo có mà không có cang thường đạo lý và tâm từ bi gì cả.

Tôn giáo xuất phát từ quyền uy, thường thường là bắt ép dân theo tôn giáo mình và nhân dân vì cuộc sống của mình nên ép phải theo để cuộc sống được yên ổn chứ không phải vì tín ngưỡng. Đó là nói theo sự mê tín, còn nói như Đức Phật dạy: “Không tin theo một tôn giáo nào nếu tôn giáo ấy có quyền uy và thế lực nhưng không dạy đạo đức nhân bản - nhân quả thì nhất định không tin và không theo”. Vì tôn giáo đó dạy không thiết thực và nếu dạy thiết thực cho con người thì không làm khổ mìnhkhổ người.

Đức Phật lại khuyên chúng ta một lần nữa, lần này là nhắm vào vị đạo sư của chúng ta. Chắc trong đời chúng ta theo một tôn giáo nào thì làm gì chúng ta cũng phải có một vị đạo sư. Vị đạo sư là một ân nhân, Người là kẻ dìu dắt chúng ta trên đường tôn giáo. Người cũng là một vị an ủi tinh thần khi chúng ta có nhiều sự khốn đốn và đau khổ bất toại nguyện. Người còn là một chỗ nương tựa về đạo đức. Nhưng ở đây Đức Phật dạy: “Đừng có tin bậc Sa-môn đạo sư của mình nếu ông dạy chúng ta những điều phi đạo đức, đời sống chúng ta không có đạo đức làm người nghĩa là còn làm khổ mình, khổ người thì chớ có tin theo”.


1417-TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC : ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ - TẬP I : LỜI NÓI ĐẦU - 4




Cách đây 2543 năm, Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ dạy cho chúng ta chọn tôn giáo hay nói cho đúng hơn là chỉ dạy chúng ta cách thức chọn một đạo đức nhân bản làm người không còn làm khổ mình, khổ người: “Này các Kàlàmà! Chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì nghe truyền thống, chớ có tin vì nghe người ta nói, chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng, chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình, chớ có tin đúng theo một lập trường, chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dự kiện, chớ có tin vì phù hợp với định kiến của mình, chớ có tin vì phát xuất nơi có uy quyền, chớ có tin vì bậc Sa môn là đạo sư của mình.
Nhưng này Kàlàmà! Khi nào tự mình biết rõ như sau: 

 “Các pháp này là bất thiện, các pháp này là có tội, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh đau khổ”. Thời này Kàlàmà,  hãy bỏ chúng.

Lời dạy trên đây, khi chúng ta nghe có một tôn giáo nào tuyên truyền, thuyết giáo thế này thế kia, có thần thông phép tắc tàng hình, xuất hồn, biến hóa, biết chuyện quá khứ vị lai hoặc thấy tánh thành Phật, hoặc tu tập trị bệnh, không đau ốm, trường thọ sống lâu hoặc đến khi chết được sanh lên Cực Lạc, Niết Bàn, Thiên Đàng, ở nơi ấy hưởng ấm no hạnh phúc, muốn gì có nấy, những lời thuyết giáo ấy Đức Phật dạy chúng ta đừng nên nghe theo, vì chẳng có lợi ích. Những lời dạy trên vốn không thực tế, nó không phải là hành động đạo đức nhân bản làm người, nó là những lời lừa đảo, huyễn hóa gạt người.

Trên đây Đức Phật dạy tiếp: khi ông bà, cha mẹ của chúng ta theo một tôn giáo có một truyền thống lâu đời, nhưng tôn giáo đó lại dạy chúng ta làm những điều mê tín lạc hậu như: cúng bái, tế lễ, cầu siêu, cầu an, xin xăm, bói quẻ, xem ngày giờ tốt xấu, bùa chú yểm đối, trị bệnh bằng tàn hương, nước lã, uống bùa, uống ngải, v.v.. Những điều dạy này là những điều lừa đảo, lường gạt người khác, không có dạy đạo đức làm người mà dạy những mánh khoé gian xảo thường tạo ra cảnh tiền mất tật mang, khiến cho muôn người khổ sở, nó chẳng đem lại lợi ích gì cho mình cho người, mà còn tạo cho con người u mê tối tăm hơn, làm những điều phi đạo đức hơn.
Đức Phật dạy tiếp: Đừng có tin vào kinh tạng truyền tụng
như kinh sách hiện giờ của tất cả các tôn giáo, vì những kinh sách hiện hành, ngay cả kinh sách Nguyên Thuỷ của Đạo Phật người đời sau thêm bớt quá nhiều làm lệch lạc ý nghĩa của lời Đức Phật dạy ban đầu. Do sự sai lạc này chúng ta tu mãi mà chẳng thấy lợi ích gì cả. Truyền tụng thì nghe quá hay, thần thông phép tắc tuyệt vời, kiến tánh thành Phật liền, hết vọng tưởng thì cũng thành Phật. Nhưng kiến tánh rồi mà thành Phật đâu chẳng thấy cũng như hết vọng tưởng rồi thì thành Phật, Phật đâu thì không biết mà chỉ thấy tâm tham, sân, si vẫn còn, làm chủ sanh tử cũng chẳng được. Cho nên, Đức Phật dạy đừng có tin kinh tạng truyền tụng, không những kinh sách Phật mà còn tất cả những kinh sách khác, nếu kinh sách nào có lợi ích thiết thực, có đạo đức không làm khổ mình khổ người thì chúng ta tin còn bằng không thì không tin.
Hiện giờ kinh tạng không đáng cho chúng ta tin, vì tu sĩ chẳng có đạo hạnh, sống như người thế tục chỉ có khác là chiếc áo Cà-sa và chiếc đầu trọc.

Về thế giới siêu hình, Đức Phật cũng dạy chúng ta đừng nên tin những lý luận của họ, vì thế giới siêu hình không có. Thế giới siêu hình đó, nếu tin thì nó là một tai hại rất lớn cho loài người, bệnh tật hoạn họa đều do thế giới này mang đến, vì tin nó mang đến cho nên nó mang đến sự thật, đó là loại
bệnh hoang tưởng. Hầu như người ta bị bệnh phần đông
là bệnh tưởng, bệnh do ăn uống phi thời, do thời tiết, khí độc thì ít mà do tưởng thì nhiều. Mà hễ có tưởng là có thế giới siêu hình, mà có thế giới siêu hình là không có đạo đức công bằng và công lý.

 Cho nên, thế giới siêu hình là thế giới phi đạo đức, người nào theo tôn giáo thì có sự ủng hộ, còn kẻ không theo tôn giáo thì không có sự gia hộ, đó không phải là sự phi đạo lý sao?

Bởi vậy, Đức Phật dạy thế giới siêu hình là thế giới của tưởng tri chứ không phải liễu tri.

Cúng bái, tế lễ, cầu khẩn, đó là hành động không Chánh Kiến, tiền mất tật mang của những người vô minh thiếu Chánh Tư Duy suy xét, muốn ngồi mát ăn bát vàng, ở không mà có tiền của, cũng như những người chơi đề, mua vé số, muốn bỏ một đồng mà lấy hàng triệu đồng, do lòng tham như vậy mà bị đề, vé số lừa đảo trở thành nghèo cùng khốn khổ.

Luật nhân quả rất công bằng và công lý: ai không gian tham lừa đảo tức là làm thiện sống thiện thì hưởng phước, ai tham danh đắm lợi làm nhiều điều ác thì phải chịu quả khổ.

 Cớ sao khi gặp tai nạn khổ đau thì lại đi cầu thế giới siêu hình để được gia hộ, để tiếp tục làm những điều ác đức khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh. Những việc cầu khẩn này là một điều phi lý, phi đạo đức hết sức.

Ở đời ai cũng muốn sống trong công bằng công lý, nhưng những hành động đi cầu thế giới siêu hình để gia hộ cho mình thì có công bằng công lý hay không?

Vì thế, Đức Phật dạy không nên tin vào thế giới siêu hình, vì thế giới siêu hình không làm lợi ích cho mình, cho người, một thế giới tưởng, một thế giới tham vọng và sợ hãi của loài người đẻ ra để an ủi tinh thần và niềm hy vọng hão huyền.

Ở bài kinh trên Đức Phật còn dạy thêm chúng ta cách thức sống ở đời đừng có tin theo đúng lập trường của mình, biết đâu lập trường của mình là lập trường phi đạo đức, thường làm khổ mình, khổ người, khổ loài vật thì những lập trường đó không bao giờ có ích lợi cho mình, cho người và cho chúng sanh.

Ví dụ: Có người tập dưỡng sinh, thể thao cho là sự luyện tập này sẽ ít bệnh tật và kéo dài tuổi thọ. Sự luyện tập này có ích lợi cho người dân ở thành phố, cơ thể họ không có lao động. Còn ở nông thôn sự luyện tập này cũng bằng thừa, vì hàng ngày họ lao động chân tay quá vất vả. Con người và con thú đều là một loài động vật, con người thì bày ra tập cái này cái nọ, con thú thì chẳng luyện tập gì cả. Thế mà con thú sống lâu hơn con người, ít bệnh đau hơn con người.